Cliff Young – Lão nông trở thành huyền thoại Ultramarathon

Gần nửa đêm ngày 02.05.1983, một cảnh tượng lạ kỳ ở Sydney, khoảng 5000 người không ngủ, tụ tập dọc con phố trung tâm để chào đón người chiến thắng cuộc đua siêu marathon dài 850km (xuất phát từ Melbourne trước đó 5 ngày).

“Tôi chưa bao giờ muốn trở thành người trong hoàng gia” – Cliff Young, người được đám đông mong đợi xuất hiện, vừa chạy vừa vẫy tay chào người hâm mộ. Đừng để cái tên đánh lừa bạn. Young – nhưng khi cán đích cuộc đua siêu marathon khắc nghiệt nhất thế giới đó, ông “mới có” 61 tuổi.

Ngoài ra thì ông mới tập chạy marathon từ năm 57 tuổi. Trước đó, ổng là một nông dân chăn cừu full-time ở Beech Forest, vùng tây nam bang Victoria (Úc).

Lúc ở Melbourne, khi bước tới bàn đăng ký tham gia, người ta thiếu điều lấy nhiệt kế rồi chụp x-quang coi ổng có bị ấm ấm đầu chỗ nào không. BTC kêu ổng “Trời đất. Bộ ông nghĩ mình có cửa về nhứt hả?”

Cliff tỉnh queo “Xời. Chuyện nhỏ! Trang trại nhà tui rộng sơ sơ 2000 mẫu Anh (hơn 800 ha), nuôi 2000 con cừu. Không có tiền mua ngựa nên mỗi lần bão tới là tui phải chạy bộ ra lùa lũ cừu về, có khi phải chạy suốt 2-3 ngày đêm. Cuộc đua này, tui chơi được!”

Ngay sau hiệu lệnh xuất phát, Cliff nhanh chóng bị bỏ lại phía sau. Đương nhiên rồi, vì hầu hết các VĐV khác đều là dân chuyên nghiệp và ít tuổi hơn ông.

Cuộc đưa dự kiến sẽ diễn ra trong 6 ngày. Với 24h mỗi ngày thì các VĐV sẽ chạy trong 18 giờ và dành 6 giờ để nghỉ ngơi.

Nhưng Cliff Young không làm thế. Giống như hồi đi lùa cừu tránh bão, ông chạy suốt đêm! Thiệt là think out of the fucking box!

Ban ngày, Cliff bị bỏ xa, nhưng sau mỗi đêm, ông lại rút ngắn khoảng cách với các VĐV chuyên nghiệp. Cứ thế. Cứ thế. Cho đến đêm cuối cùng, Cliff đã vượt qua đoàn đua. Kỳ tích đã xảy ra, Cliff là người đầu tiên cán đích với thành tích 5 ngày 15 giờ 4 phút, phá kỷ lục cũ đến 9 giờ và hơn người về thứ hai đến gần 10 giờ. Sau khi nhận phần thưởng 10.000 đôla, Cliff chia đều cho 5 người về sau ông vì “tôi không tham dự vì tiền thưởng và họ xuất sắc hơn tôi”.

Năm tiếp theo, Cliff Young lại đăng ký tham gia. Ông về thứ 7 vì chấn thương ở hông và ống quyển. Cliff được trao tặng một chiếc xe Mitsubishi vì lòng dũng cảm nhưng ông lại tặng nó cho VĐV khác (Bob McIlwaine). Một món quà khác là chiếc đồng hồ để Cliff tính thời gian, nhưng ông cũng tặng cho một đứa bé. Ông lại rất tỉnh và đẹp trai “Tại sao tôi lại cần đồng hồ? Tất cả những gì tôi cần biết là chỉ là khi nào trời sáng, trời tối và khi tôi đói.”

Năm 1997, ở tuổi 76, Cliff trở thành người lớn tuổi nhất chạy vòng quanh Úc và vận động quyên góp cho trẻ em vô gia cư. Đáng tiếc là ông đã phải bỏ dở cuộc chinh phục sau khi đã chạy được 6.520 km trên tổng 16.000 km vì chấn thương. Năm 2000, Cliff lại tiếp tục hoàn thành 921 km tại một cuộc đua 1.600 km khác.

Ngày 02/11/2003, Cliff mất ở tuổi 81.

Ngày nay, rất nhiều VĐV marathon đã áp dụng kiểu chạy của Cliff vì nó ít tốn năng lượng. Ít nhất 3 nhà vô địch giải marathon Sydney – Melbourne đã áp dụng cách chạy được gọi là “Young-shuffle” này.

Sabriye Tenberken – Người phụ nữ mù “thắp sáng” Tây Tạng

Với người bình thường, mù là điều vô cùng khủng khiếp bởi đôi mắt là cửa sổ của tri thức và tâm hồn. Bị mù không phải do bẩm sinh thường gây ra những cú sốc tâm lý kéo dài cho đến cuối đời. Nhưng Sabriye Tenberken, một phụ nữ Đức là ngoại lệ hiếm có.

Sinh năm 1970 tại Cologne, khi lên 2, bố mẹ của Sabriye được thông báo rằng con của họ sẽ bị mù dần dần. Kể từ đó, Sabriye được dẫn đi rất nhiều nơi để thu nhận càng nhiều càng tốt những hình ảnh về thế giới xung quanh. Dường như ý thức được cuộc đua không cân sức với thời gian, tâm trí của cô bé luôn rộng mở và ngập tràn trong màu sắc, hình ảnh, chuyển động. Năm 13 tuổi, Sabriye bị mù hoàn toàn.

Khi trưởng thành, Sabriye theo học khoa Trung Á tại ĐH Bonn. Như mọi sinh viên phương Tây năng động khác, cô cùng mẹ thực hiện một chuyến đi đến Nepal vừa phục vụ việc học, vừa du lịch. Sabriye không biết rằng khi đặt chân đến Tây Tạng, cuộc đời cô rẽ sang một hướng khác.

Chỉ lưu lại Tây Tạng một thời gian ngắn, nhưng quá đủ để Sabriye cảm thấy bất mãn với cách đối xử mà dân bản xứ dành cho người mù. Bị bỏ ngoài đường hoặc nhốt kín trong nhà, không giáo dục, không y tế và bữa ăn hay quần áo chỉ là của bố thí, người mù ở Tây Tạng là vật bị thần linh nguyền rủa. Không nhìn thấy nhưng qua lời kể của mẹ, Sabriye nhen nhóm khao khát thay đổi số phận nghiệt ngã của những người mù ở vùng đất được coi là nóc nhà của thế giới.

Quay lại Đức, Sabriye lao vào học tiếng Tây Tạng. Rủi thay, hệ thống chữ nổi cho người mù (Braille) chưa có tiếng Tây Tạng. Nó giống như việc bạn học tiếng Anh mà thiếu bảng chữ cái vậy. Nhưng với Sabriye, chuyện không có gì to tát. Năm 1992, Sabriye hoàn thành Hệ thống chữ nổi tiếng Tây Tạng.

Năm 1998, cô quay lại Tây Tạng, một mình! Sabriye trình bày kế hoạch giáo dục trẻ em mù cho các nhà chức trách. Bất chấp những khó khăn về tài chính, sức ép từ chính quyền sở tại cùng vô số lời dèm pha, đàm tiếu, ngăn cản, cuối cùng Trung tâm Người mù của cô ra đời tại Lhasa (được coi là thủ đô của khu tự trị Tây Tạng). Năm học sinh đầu tiên của Trung tâm cũng là những người mù đầu tiên được đi học trong lịch sử hàng nghìn năm của Tây Tạng.

Cũng trong năm này, cùng với Paul Kronenberg, một thành viên Hội Chữ thập đỏ, Sabriye sáng lập Project for the Blind, Tibet (Dự án dành cho Người mù ở Tây Tạng). Năm 2002, dự án đổi tên thành Braille Without Borders (tạm dịch: Tổ chức Người mù không biên giới) với mục tiêu đem lại hi vọng và kỹ năng sống cho người mù. Tổ chức hiện có hai trường học (ờ Tây Tạng và Ấn Độ), một trung tâm trị liệu, một nông trại dạy nghề (đều ở Tây Tạng) và một văn phòng đại diện ở Ấn Độ. Kinh phí hoạt động của Tổ chức thời gian đầu chủ yếu từ 3 cuốn sách của Sabriye (là My path leads to Tibet, Tashis neue Welt và Das siebte Jahr) và một phần từ các tổ chức nhân đạo quốc tế khác.

Những đóng góp phi thường của Sabriye Tenberken được cả thế giới ghi nhận. Trong số vô số giải thưởng cô nhận được, nổi bật là: HERO (do tạp chí Time châu Âu và châu Á bình chọn năm 2004), Global Leader for Tomorrow (do Diễn đàn Kinh tế Thế giới bình chọn năm 2005), Huy chương Bundes Verdienstkreuz từ tổng thống Đức Horst Köhler, Mother Teresa Award (cho bản thân Sabriye Tenberken và tổ chức Braille Without Borders).